Giới thiệu khung phân loại LCC

Đến nay LCC cùng với DDC là những hệ thống phân loại được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Văn phòng hỗ trợ và chính sách biên mục của Thư viện Quốc hội Hoa Kì (Library’s Cataloging Policy and Support Office) bảo trì và phát triển hệ thống.

Khác với khung phân loại DDC được Melvil Dewey một mình xây dựng để sử dụng trong tất cả các loại hình thư viện. Khung phân loại LCC được xây dựng dựa trên cấu trúc kho sách của Thư viện Quốc hội Hoa Kì. Bản chất chuyên biệt của thư viện này đã ảnh hưởng đến toàn bộ khung phân loại. Thư viện Quốc hội bao gồm nhiều sưu tập, mỗi sưu tập được chứa vào những nơi khác nhau. Hậu quả đưa đến khung phân loại bao gồm nhiều bảng phân loại riêng biệt được thiết kế bởi những chuyên gia chủ đề khác nhau.

Sự tiện lợi trong tổ chức và quản lí việc sử dụng khung phân loại LCC có ảnh hưởng lớn đến những thư viện hiện đại. Việc sử dụng miễn phí những biểu ghi LCC trong hệ thống mục lục của Thư viện Quốc hội Hoa Kì và những mục lục liên hợp có chứa biểu ghi LCC (chẳng hạn như COPAC ở vương quốc Anh) đã thu hút hầu hết những thư viện quan tâm đến việc sao chép biểu ghi hơn là tự mình xây dựng. Đó cũng là lí do khiến khung phân loại LCC ngày càng phổ biến.

Khung phân loại LCC được xem như một hệ thống đầy tiềm năng cho việc áp dụng rộng rãi trong thời đại trực tuyến thông qua nghiên cứu việc sử dụng LCC như là một công cụ để:

- Phân chia thành nhiều phần những kho tin lớn;

- Tạo nên những nguyên tắc phân loại miền chuyên biệt (domain-specific classification) trên internet;

- Tích hợp phân loại và những thuật ngữ đề tài có kiểm soát cho việc truy hồi thông tin trong mục lục truy cập công cộng trực tuyến (OPAC) và trên internet.

Hiện nay khung phân loại LCC được dùng nhiều trong các thư viện đại học và nghiên cứu, đặc biệt là trong những thư viện chuyên ngành hẹp, chẳng hạn như thư viện của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.

Lịch sử LCC

Thư viện Quốc hội Hoa Kì được thành lập theo lệnh của Quốc hội vào tháng Giêng năm 1800 thông qua một đạo luật về xây dựng thư viện của lưỡng viện Quốc hội. Theo đó cung cấp cho thư viện một phòng chứa 740 cuốn sách (được thượng nghị sĩ Samuel Dexter mua trong những năm trước đó), thiết lập nội quy thư viện và bổ nhiệm giám đốc thư viện đầu tiên, John Beckley. Vào tháng Tư 1802, ông đã thiết lập mục lục đầu tiên với việc xếp sách theo kích cỡ (khổ sách).

Năm 1812, thư viện sử dụng khung phân loại thư viện Philadelphia, lần đầu tiên có sự tiếp cận chủ đề. Khung phân loại này dựa trên một phóng tác của hệ thống Bacon được dùng trong bách khoa toàn thư của Diderot và d’Alembert. Thư viện Quốc hội chỉ dùng 18 trong 31 lớp chính của Philadelphia, và trong khoảng ở giữa mỗi lớp, sách được tiểu phân theo kích cỡ và xếp theo thứ tự chữ cái.

Năm 1814, điện Capitol bao gồm cả Thư viện Quốc hội bị quân Anh đốt cháy và hầu hết sách đều bị thiêu rụi. Tổng thống Thomas Jefferson đã bán cho Quốc hội thư viện riêng của ông ta với khoảng 7.000 cuốn sách, thư viện này được tổ chức phân loại theo vị trí cố định gồm 44 lớp và lại dựa vào Bacon/d’Alembert. Năm 1815, thư viện được chấn chỉnh lại và tồn tại trên địa điểm đó cho đến 1897, và sau đó được dời vào tòa nhà mới. Tại thời điểm này, Thư viện Quốc hội nghiên cứu việc thay đổi khung phân loại. Một số khung phân loại ứng viên là Khung phân loại DDC, khung Phân loại Mở rộng Cutter (Cutter’s Expansive Classification), và khung Hartwig’s Halle. Trong những khung này, khung Phân loại Mở rộng của Charles Ammi Cutter là thích hợp với nhu cầu của Quốc hội nhất. Cutter đã sẵn lòng chỉnh sửa lại hệ thống của mình cho phù hợp với Thư viện Quốc hội hơn.

Năm 1899, Tiến sĩ Herbert Putman, giám đốc thư viện mới được bổ nhiệm, đã quyết định phân loại lại toàn bộ sưu tập thư viện. Herbert Putman và người cộng sự Charles Martel, biên mục viên trưởng, đã chọn chính khung phân loại do mình phát triển dựa trên nền tảng Phân loại Mở rộng của Cutter có tham khảo thêm khung phân loại DDC, ấn bản lần thứ năm. Đây chính là khung phân loại LCC sau này. Kí hiệu của khung phân loại LCC là kết hợp giữa chữ cái và số Ả Rập; trong khi kí hiệu của khung Phân loại Mở rộng Cutter chỉ toàn chữ; và kí hiệu của khung phân loại DDC thì toàn số.

Xuất bản và quản lí LCC

Phòng công tác biên mục của Thư viện Quốc hội Hoa Kì chịu trách nhiệm quản lí chung về hệ thống phân loại. Khung phân loại là đồ sộ, xuất bản nhiều tập; ngay cả một vài môn loại chính cũng được xuất bản thành nhiều phần bởi vì chiều dài của bảng chính. Khác với khung phân loại DDC, Thư viện Quốc hội chưa bao giờ “trình làng” toàn bộ khung phân loại cùng xuất bản mới một lúc, nhưng từng tập riêng lẻ thì được cập nhật khi cần thiết.

Mỗi bảng chính (schedule) được phát triển bởi từng nhóm chuyên gia đề tài riêng, và được tiến hành dần dần trong suốt cả thế kỉ. Bảng thứ nhất, E-F Lịch sử: Mĩ (Tây bán cầu) xuất bản năm 1901; tiếp tục 1902 bởi Z Thư mục học. Thư viện học. Bảng môn loại Luật đầu tiên – Luật Hoa Kì xuất bản năm 1969 và các bảng môn loại Luật khác vẫn đang phát triển.

Những phiên bản của khung phân loại LCC bao gồm:

- Library of Congress Classification – Bản in.

- Classification Plus (Thư viện Quốc hội Hoa Kì xuất bản).

- SuperLCCs: Gale’s LCC schedules kết hợp với

Additions and Changes (gồm bản in và CD-ROM).

- Classweb: hay Classification Web là phiên bản trực tuyến của LCC tại địa chỉ: http://classi- ficationweb.net/. Classweb bao gồm:

• Browse Classification Schedules (Dò tìm bảng chính)

• Classification Search (Truy tìm phân loại)

• LC Subject Headings (Bộ tiêu đề chủ đề LC – LCSH)

• Genre/Form Headings (Tiêu đề hình thức)

• Juvenile Subject Headings (Bộ tiêu đề chủ đề thiếu nhi)

• LC Subject Heading & LC Classification Number Correlations (Tương quan giữa tiêu đề chủ đề LC với chỉ số phân loại LCC)

• LC Subject Heading & Dewey Classification Correlations* (Tương quan giữa tiêu đề chủ đề LC với chỉ số phân loại DCC)

• LC Classification & Dewey Classification Correlations* (Tương quan giữa chỉ số phân loại LCC với chỉ số phân loại DCC)

Trong thập niên 1900, bản điện tử LCC được phát hành trên CD-ROM   khiến việc dò tìm và phân loại dễ dàng hơn. Năm 2002, được thay thế bằng Classweb, một phiên bản trực tuyến của khung phân loại LCC và bộ tiêu đề chủ đề của Thư viện Quốc hội Hoa Kì – LCSH. Địa chỉ web www.loc.gov là nơi tốt nhất để tìm thông tin về khung phân loại LCC, và tất nhiên hệ thống mục lục của Thư viện Quốc hội Hoa Kì là nguồn dữ liệu phân loại tuyệt vời về những biểu ghi thư tịch.

Rõ ràng việc truy cập miễn phí vào những biểu ghi cũng như dịch vụ thư tịch do Thư viện Quốc hội Hoa Kì cung cấp đã tác động đến quyết định chọn khung phân loại này của nhiều thư viện.

Những đặc tính cơ bản của LCC

1. Đặc tính dựa trên sự phát triển sưu tập

Đặc tính cơ bản nhất của khung phân loại LCC là dựa trên sự phát triển sưu tập (literacy warrant) có nghĩa là những lớp trong khung phân loại được tạo nên từ việc phân loại cụ thể tài liệu trong sưu tập chứ không phải dựa trên những phân tích lí thuyết của tri thức, tư liệu học hay triết học.

Đây nhất thiết không phải là một điều không tốt, bởi vì bất cứ một hệ thống phân loại thư tịch nào cũng đều phản ánh chủ đề như chúng hiện hữu trong tài liệu để phân loại hơn là trong một quan điểm trừu tượng của thế giới. Vấn đề nảy sinh là bởi vì trường hợp LCC là để đối phó với chỉ một thư viện.

Ngày nay, với nhiều thư viện sử dụng LCC, và với nhiều thư viện liên quan đến những dự án biên mục hợp tác, thế giới bên ngoài đã chịu ảnh hưởng Thư viện Quốc hội Hoa Kì nhiều hơn trong quá khứ. Những thư viện cũng có thể đề nghị thêm những lớp hay tiêu đề mới để bổ sung vào hệ thống của Thư viện Quốc hội. Quả thật, nếu ta so sánh giữa Classweb với hệ thống mục lục của Thư viện Quốc hội Hoa Kì thì ta thấy sự khác nhau về nội dung giữa hai hệ thống, điều này cách đây 20 năm là không có.

2. Đặc tính liệt kê

Nếu phân cấp là đặc tính của khung phân loại DDC, phân tích - tổng hợp là đặc tính của khung phân loại UDC, thì liệt kê (enumerative) là đặc tính của khung phân loại LCC. Hơn thế nữa, bản chất liệt kê là đặc tính quan trọng nhất của khung phân loại LCC. LCC là ví dụ đầu tiên về hệ thống phân loại liệt kê, có nghĩa rằng hệ thống liệt kê tất cả những môn loại mà nó có thể. Phương cách tiếp cận này trái ngược với những hệ thống phân tích - tổng hợp như UDC và BC1 (ấn bản lần thứ nhất của khung phân loại thư mục Bliss), và những khung theo diện như khung phân loại Hai chấm và BC2 (ấn bản lần thứ hai của khung phân loại thư mục Bliss). Trong những khung phân loại như thế này, người ta có thể xây dựng những kí hiệu môn loại/ lớp phản ánh những phần tạo nên một nội dung của tài liệu, và như thế số lượng những môn loại tiềm năng là lớn hơn nhiều so với những môn loại thực được liệt kê.

Trong một khung phân loại liệt kê, những chủ đề kép và phức là được liệt kê sẵn trong khung phân loại, và thường thì ta không thể cộng thêm những gì vào đó. Điều này khiến cho những đề tài mới khó có được chỉ số phân loại cho đến khi Thư viện Quốc hội chính thức thêm vào hệ thống.

Thêm vào đó, những bảng chính là dài hơn nhiều và phức tạp hơn những khung phân loại khác. Điều này chủ yếu là do sự lặp đi lặp lại một cách thường xuyên những khía cạnh thông thường mà có thể được thêm vào một cách kinh tế từ những bảng chính tổng hợp hay bảng phụ; LCC lặp lại một cách thường xuyên ngay cả những kí hiệu thông thường như tiểu phân mục hình thức và thời kì lịch sử dưới những lớp chủ đề riêng.

Khung phân loại LCC cũng thiếu giá trị gợi nhớ khi những kí hiệu của những khía cạnh thông thường thì luôn luôn không nhất quán theo cách thông thường như ở những khung phân loại khác.

Về mặt tích cực, tính liệt kê đảm bảo rằng khung phân loại là rất đơn giản để sử dụng vì những tùy chọn bị hạn chế khắt khe và người phân loại không đòi hỏi phải nổ lực nhiều về mặt trí tuệ.

3. Đặc tính sắp xếp chủ đề theo thứ tự chữ cái

Đặc tính đặc sắc thứ ba của LCC là việc sử dụng trên phạm vi rộng trật tự chữ cái để sắp xếp chủ đề. Chủ đề được xếp theo thứ tự chữ cái, ngay khi bất kì chi tiết nào của chủ đề được yêu cầu, LCC thường chọn cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái của đề tài. Dĩ nhiên đây thực sự không phải là cách sắp xếp theo hệ thống, và trật tự có được không luôn luôn hữu ích lắm vì một cách tự nhiên nó không thiết lập mối quan hệ nào theo chủ đề.

Danh sách dưới đây được trích từ lớp văn học và cung cấp về thi ca theo chủ đề. Chủ đề trong danh sách này là bằng tiếng Anh được xếp theo thứ tự chữ cái.

PR1195.L3     Labor.   Working   class   (Lao động. Lớp làm việc)

PR1195.L34    Landscape (Cảnh quan)

PR1195.L37    Law and lawyers (Luật pháp và luật sư)

PR1195.L6      London

PR1195.L8      Lullabies (Bài hát ru con)

PR1195.L85    Luther, Martin

PR1195.M15   Machinary (Cơ khí)

PR1195.M2     Madrigals (Thơ trữ tình)

PR1195.M22   Magic (Ảo thuật)

PR1195.M24   Manners and custom (Phong tục và tập quán)

PR1195.M33   Medicine (Y học)

PR1195.M53   Mice (Chuột)

PR1195.M6     Monster (Quỷ sứ)

PR1195.M63   Mothers (Mẹ)

PR1195.M65   Mountains (Núi)

PR1195.M8     Mythology (Thần thoại)

Tiện lợi của việc sắp xếp chủ đề theo trật tự chữ cái là mỗi khi được cập nhật thì đề tài mới thường có thể được chèn vào không mấy khó khăn.

Chỉ số phân loại LCC

Khung phân loại LCC là một hệ thống liệt kê. LCC sử dụng những chỉ số phân loại để liệt kê chủ đề phản ánh toàn bộ tri thức. Chỉ số này là một hỗn hợp giữa kí tự và con số (chữ và số).

Kí hiệu phân loại LCC kết hợp với số Cutter và năm xuất bản tạo nên một kí hiệu xếp giá rất khác biệt với những hệ thống phân loại khác.

1. Kí hiệu phân loại

Ngoài tổ hợp giữa chữ và số, chỉ số phân loại LCC không dùng bất kì một dấu hiệu nào khác ngoài dấu chấm (.) và thông thường là dấu chấm thập phân.

Một kí hiệu lớp tiêu biểu bao gồm hai kí tự và một con số từ 1 đến 9999. Ví dụ:

  1. TS1865            Dù và lọng
  2. BF1775           Mê tín dị đoan
  3. HE6183           Tem thư

Trong một lớp nhiều chi tiết, thì phân lớp thường là ba kí tự, chẳng hạn như Luật pháp, và lớp chính bắt đầu chỉ một kí tự. Ví dụ:

  1. KDE540          Luật hình sự Bắc Ireland
  2. KNP501          Luật hành chính Đài Loan
  3. B42                  Tự điển triết học Pháp và Bỉ
  4.  Thư mục tập hợp khoa học xã hội

Hai ví dụ sau cũng minh họa những cấp độ tiền kết hợp rất gọn gàng trong khung phân loại LCC; trong những khung phân loại khác, quan niệm hình thức, như “từ điển” hay “thư mục”, và ngôn ngữ sẽ được đặt trong những bảng phụ.

Những con số được sắp xếp theo thứ tự số, có nghĩa là theo thứ tự giá trị của con số (chứ không phải phản ánh nội dung như trong phân loại DDC).

Bởi vì LCC có một cơ sở kí hiệu rộng rãi (sử dụng bảng chữ cái cho lớp chính cộng với 10 chữ số, và 36 kí tự cùng nhau tạo nên phân lớp) nên có những kí hiệu lớp tương đối ngắn đối với những chủ đề rất chi tiết.

ThS. Nguyễn Minh Hiệp

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 2(28) – 2011 (tr.36-41)